I. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ PHƯỜNG TAM KỲ
- Theo Nghị quyết số 1659/NQ-UBTVQH15 thông qua ngày 16/6/2025 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Đề án số 403/ĐA-CP ngày 09/5/2025 của Chính phủ về sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của thành phố Đà Nẵng (mới) năm 2025; phường Tam Kỳ được thành lập trên cơ sở sắp xếp toàn bộ diện tích tự nhiên, quy mô dân số của các phường An Mỹ - An Xuân - Trường Xuân với tổng diện tích tự nhiên là 8,36 km2, toàn phường có 22 khối phố (Trường Xuân có 05 khối phố, An Mỹ có 08 khối phố, An Xuân có 09 khối phố), với tổng 211 tổ đoàn kết, có 10.670 hộ, dân số là 44.075 người. Mật độ dân cư phân bố không đồng đều, chủ yếu dân cư phân bổ tại khu vực phường An Xuân (9.770 người/km2) và An Mỹ (7.921 người/km2), riêng khu vực phường Trường Xuân có mật độ dân số thấp (1.852 người/km2).
- Về vị trí địa lý, tứ cận giáp với các đơn vị sau:
+ Phía Tây Bắc: giáp phường Bàn Thạch, thành phố Đà Nẵng;
+ Phía Đông Bắc: giáp phường Quảng Phú, thành phố Đà Nẵng;
+ Phía Đông Nam: giáp phường Hương Trà, thành phố Đà Nẵng;
+ Phía Tây Nam: giáp xã Chiên Đàn, thành phố Đà Nẵng.
- Trụ sở làm việc của các cơ quan, đơn vị trên địa phường được đặt tại các cơ quan, đơn vị thuộc thành phố Tam Kỳ và UBND các phường trước đây, cụ thể:
+ Đảng ủy, HĐND, UBND phường Tam Kỳ: Số 70 Hùng Vương, phường Tam Kỳ (trụ sở HĐND-UBND thành phố Tam Kỳ cũ);
+ UBMTTQVN phường: Số 99 Hùng Vương, phường Tam Kỳ (tại trụ sở cơ quan Mặt trận, các Hội Đoàn thể thành phố Tam Kỳ cũ);
+ Trung tâm Phục vụ Hành chính công: Số 159 Trưng Nữ Vương, phường Tam Kỳ (tại Trung tâm Hành chính công thành phố Tam Kỳ cũ);
+ Trung tâm Cung ứng dịch vụ công: Đường Nguyễn Thái Học, phường Tam Kỳ (trụ sở UBND phường An Mỹ cũ);
+ Công an phường: Số 178 Hùng Vương, phường Tam Kỳ (CATP cũ);
+ Ban Chỉ huy Quân sự: Đường N24, phường Tam Kỳ (trụ sở UBND phường An Xuân cũ).
II. LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA
TAM KỲ: Là danh xưng của Thành phố Tam Kỳ
Địa danh “Tam Kỳ” xuất hiện lần đầu tiên trong thư tịch là cuốn “Phủ biên Tạp lục” của Lê Quý Đôn viết khoảng năm 1776. Trong cuốn sách “ghi chép việc vỗ yên dân ở vùng biên cảnh”, Sông Tam Kỳ của tỉnh Quảng Nam, được tác giả ghi: “Từ chợ Chiên Đàn qua quán Suối Đá, quán Phú Khương ở sông Tam Kỳ rồi đến sông Bàu Bàu mất một ngày đường”. Tam Kỳ chính thức trở thành địa danh hành chính muộn nhất là 9 năm trước khi sách của Lê Quý Đôn ra đời, năm 1767 dưới triều vua Lê Hiển Tông (1740 - 1786). “Tam Kỳ” trong sách Đồng Khánh địa dư chí và Đại Nam nhất thống chí, nguyên bản chữ Hán ghi là 參 岐; trong đó 參 là cách viết khác của chữ 三 (Tam), 岐 (Kỳ) là chỗ rẽ, hay nhánh chia ra; hay nghĩa cổ là gò đất cao. Như vậy có thể nói rằng danh xưng Tam Kỳ được các bậc tiền nhân đặt tên theo hình sông thế núi, theo đó Tam Kỳ có 3 cụm núi: Trà Cai, An Hà và Quảng Phú và 3 dòng sông: Tam Kỳ - Bàn Thạch và Trường Giang.
Qua nguồn tư liệu, chúng ta có thể thấy rằng, “Tam Kỳ” trước hết là tên dòng sông Tam Kỳ, có thể nó gắn liền với tên đất tên làng bên bờ sông, rồi đến “tân lập Tam Kỳ xã” của tư liệu Làng Hương Trà. Đồng thời, bấy giờ xã Tam Kỳ thuộc huyện Hà Đông, phủ Thăng Hoa. Theo Đại Nam nhất thống chí, đầu thời Gia Long, phủ lỵ Hà Đông đặt ở xã Chiên Đàn, đến năm Thiệu Trị thứ hai (1842) mới dời về xã Tam Kỳ, lúc đó vẫn còn gọi là huyện Hà Đông. Rồi đến năm Thành Thái thứ mười tám (1906), vua Thành Thái ban Dụ chính thức nâng huyện Hà Đông thành phủ và đổi tên thành phủ Tam Kỳ; rồi đến huyện Tam Kỳ; sau đổi thành thị xã Tam Kỳ và hiện nay là Thành phố Tam Kỳ.